Hammurabi - Bộ luật thành văn cổ xưa nhất thế giới 4.000 năm sau vẫn giá trị

Bộ luật Hammurabi của nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại ra đời trong thời vua Hammurabi (1796 TCN - 1750 TCN), là một trong những bộ luật thành văn cổ xưa nhất của nhân loại, sau gần 4.000 năm, bộ luật vẫn được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ và mang nhiều giá trị đương đại.

Bộ luật Hammurabi ngày nay được lưu giữ tại bảo tàng Louvre (Pháp).

Bộ luật hoàn chỉnh khắc trên đá

Vào năm 1901, một đoàn nghiên cứu khảo cổ người Pháp đã phát hiện trên phiến đá bazan cao 2,44m ở tại quảng trường thành phố Suse, thuộc đất nước Iran ngày nay, có khắc Bộ luật Hammurabi của triều đại Babylon. Bộ luật mang tên vị vua thứ 6 của Babylon, cũng chính là người ban hành bộ luật - vua Hammurabi. Bộ luật ngày nay được lưu giữ tại bảo tàng Louvre (Pháp).

Theo giới nghiên cứu, bộ luật ra đời trong thời kỳ nền kinh tế của vùng Lưỡng Hà chủ yếu là nông nghiệp, dần dần xuất hiện và phát triển kinh tế hàng hóa. Các hoạt động kinh tế đặt ra nhu cầu cần phải có bộ luật phù hợp để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ dân sự. Trong khi các tiền lệ pháp, tập quán pháp ra đời từ trước đó lại không thể theo kịp sự phát triển kinh tế lúc bấy giờ.

Từ nhu cầu đó, Bộ luật Hammurabi được xây dựng trên cơ sở pháp điển hóa nhiều văn bản trước đó và trên cơ sở kế thừa luật lệ của người Xume, người Amôrít. Bộ luật Hammurabi gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và kết luận; với 282 điều, nhưng chỉ có 247 điều đọc được, 35 điều còn lại được cho là bị quân xâm lược Êlam cạo đi khi cướp bộ luật đem về thành Suse.

Phần mở đầu vua Hammurabi tuyên bố rằng các vị thần đã trao đất nước cho nhà vua thống trị để làm cho đất nước giàu có, nhân dân no đủ. Ở phần kết luận Hammurabi tuyên bố sẽ trừng trị tất cả những ai xem thường và định hủy bỏ đạo luật. Tác giả bộ luật đã ý thức sâu sắc kết hợp thần quyền, vương quyền, và pháp quyền, khiến bộ luật trở nên “linh thiêng hóa” nhằm đạt được mục đích cai trị dân chúng.

Về kĩ thuật lập pháp, bộ luật tuy không phân chia thành các ngành luật nhưng cấu trúc được chia thành nhóm có các điều khoản và nội dung khác nhau. Bộ luật phản ánh khái quát các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cũng như mọi mặt sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội. Nội dung được diễn đạt bằng lời văn sáng sủa, dễ hiểu, các điều luật được xây dựng theo phương pháp liên hoàn, móc xích nhau, thể hiện tính chặt chẽ và khả năng bao quát lớn.

Phạm vi điều chỉnh của bộ luật là những quan hệ xã hội rộng, với bốn lĩnh vực chủ yếu đó là dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình và tố tụng… Về mặt hình thức pháp lý, đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, mang tính hàm hỗn, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và các chế tài kèm theo.

Nhìn chung, bộ luật đã xây dựng rất công phu, điều chỉnh và phản ánh một cách sinh động mọi mặt đời sống của vương quốc Babylon. Bộ luật không chỉ có giá trị về nghiên cứu pháp lý mà còn là nguồn cứ liệu lịch sử phong phú, quý giá để nghiện cứu nền văn hóa Babylon – Lưỡng Hà cổ đại. Bỏ qua những hạn chế khó tránh khỏi, những giá trị tiến bộ của bộ luật này cho đến nay vẫn tiếp tục được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, khai thác và kế thừa.

Bộ luật với 282 điều, gồm ba phần mở đầu, nội dung và kết luận.

Nhiều điểm tiến bộ, nhân văn

Ngoài một số hạn chế lịch sử, giá trị xã hội của bộ luật được hiện rõ ngay từ mục đích của bộ luật, thể hiện ở phần mở đầu: “Vì hạnh phúc của loài người, thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm – Hammurabi, một vị quốc vương quang vinh và ngoan đạo, vì chính nghĩa, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho trẫm giống như thần Samát sai xuống dân đen, tỏa ánh sáng khắp muôn dân.”

Bộ luật Hammurabi áp dụng nguyên tắc công bằng, ở đây có nghĩa là áp dụng hình phạt ngang bằng với thiệt hại mà kẻ phạm tội gây ra. Tinh thần nhân đạo, giá trị nhân văn cũng được thể hiện qua những quy định về cách đối xử với con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bảo vệ quyền lợi của người tự do, giai cấp chủ nô và cả quyền lợi của nô lệ. Như nô lệ được quyền kết hôn với người tự do, khi ốm được hưởng quyền chữa bệnh, người nào vì nợ nần mà phải làm nô lệ thì thời gian làm nô lệ cũng không quá ba năm…

Một số điểm tiến bộ, đặc sắc của bộ luật này chính là các quy định về dân sự, cụ thể điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Luật quy định ba điều kiện bắt buộc đối với hợp đồng mua bán, một cách khá chặt chẽ: Thứ nhất, người bán phải là chủ thực sự; thứ hai, tài sản phải có giá trị sử dụng; thứ ba, phải có người làm chứng. Đối với hợp đồng vay nợ, bộ luật có điểm tiến bộ khi quy định mức lãi suất cụ thể, như đối với tiền là 1/5, vay thóc là 1/3.

Bộ luật quy định các điều khoản lĩnh canh ruộng đất, trong đó đối với ruộng, người lĩnh canh nhận mỗi mùa từ 1/3 – 1/2 số sản phẩm thu hoạch. Đối với vườn được nhận 2/3 số sản phẩm thu hoạch. Về chế định thừa kế tài sản, Bộ luật Hammurabi phân làm hai loại thừa kế, đó là thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.

Trường hợp thừa kế theo pháp luật, nếu người cho thừa kế không để lại di chúc thì tài sản được chuyển đến cho những người có quyền đối với tài sản đó theo luật định. Thời gian đầu tài sản tập trung ở dòng họ, dần dần được chuyển về gia đình có quyền thừa kế và thành tài sản chung của gia đình. Đó là cách thừa kế theo pháp luật.

Trường hợp thừa kế theo di chúc, bộ luật đã hạn chế quyền tự do của người viết di chúc như quy định cha không được tước quyền thừa kế của con trai nếu con mới phạm lỗi lần đầu và lỗi không nghiêm trọng. Con trai, con gái đều được hưởng quyền thừa kế ngang nhau.

Về lĩnh vực hôn nhân và gia đình, điểm tiến bộ là đã có quy định kết hôn phải có giấy tờ, ở mức độ nào đó có quy định bảo vệ người phụ nữ (vợ có quyền ly hôn khi chồng đi khỏi nhà không có lý do, chồng có quan hệ ngoại tình hay vu cáo vợ ngoại tình). Có một quy định khác rất nhân đạo nếu đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, đó là người chồng không được bỏ vợ khi biết người vợ mắc bệnh phong hủi.

Về hình sự, bộ luật có nhiều điểm hạn chế khi thể hiện tính giai cấp và sự bất bình đẳng, áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi, địa vị của người chồng, người cha trong gia đình. Hay đặt nặng việc trừng trị với những hình phạt rất khắc nghiệt mà chưa tính đến tính giáo dục, hay tạo điều kiện để người vi phạm hoàn lương. Tuy nhiên, có điểm tiến bộ là manh nha phân biệt phạm tội vô ý và phạm tội cố ý. Ví dụ luật ghi trong khi ẩu đả làm chết người, nếu kẻ làm chết người chứng minh được rằng không cố ý giết người thì sẽ không bị tử hình, chỉ bị phạt tiền.

Về tố tụng, bộ luật có nhiều quy định về thủ tục bắt giữ, giam cầm, quy định những nguyên tắc khi xét xử như xét xử phải công khai, phải coi trọng chứng cứ, phán quyết phải được thi hành nghiêm minh… Trong quy định rất đặc thù về tố tụng, có quy định về trách nhiệm của thẩm phán.

“Thẩm phán xử một vụ kiện mà ra phán quyết bằng văn bản, nếu sau đó phát hiện lỗi trong văn bản là do thẩm phán thì thẩm phán sẽ phải trả 12 lần giá trị tiền phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện, đồng thời ông ta sẽ bị buộc phải rời khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn và không bao giờ có thể trở thành thẩm phán lần nữa”, trích bộ luật.

Giới nghiên cứu cho rằng, quy định trên đặt giữa một xã hội thể hiện tính giai cấp sâu sắc, quả thật là một sự tiến bộ. Bộ luật coi trọng công tác xét xử, rất coi trọng trách nhiệm xét xử công bằng của thẩm phán. Sử sách đã ca ngợi rằng ở Lưỡng Hà cổ đại, tinh thần thượng tôn luật pháp và thói quen cầu viện công lý đã ăn sâu vào tác phong sinh hoạt của người dân nơi đây.

Có thể thấy, trong nhiều quy phạm của bộ luật dù ở dạng thức sơ khai nhất, cổ xưa nhất vẫn hàm chứa đậm nét những giá trị tiến bộ, nhân văn, đặc biệt là về kĩ thuật lập pháp trong các quy định từ hôn nhân gia đình đến thừa kế, các quy định về hợp đồng. Không thể phủ nhận những giá trị lịch sử pháp lý của bộ luật khi những quy định ra đời cách đây gần 4000 năm vẫn chứa đựng nhiều giá trị đương đại đáng kế thừa và phát triển.

Gia Nguyễn

To Top