Những sự kiện 'siêu lây nhiễm' khiến Covid-19 bùng phát

Theo GS.TS Phan Trọng Lân, Viện trưởng Viện Pasteur TP.HCM, bữa tiệc với khoảng 30 người có thể trở thành sự kiện siêu lây nhiễm.

Dịch Covid-19 đang có những diễn biến khó lường. Việt Nam đã ghi nhận 2 biến chủng mới từ Anh và Ấn Độ, được cho là gây lây lan virus nhiều hơn. Số lượng ca bệnh tăng vọt trong những ngày qua, đặc biệt là tại các điểm nóng như Bắc Giang, Bắc Ninh. Giáo sư, tiến sĩ Phan Trọng Lân, Viện trưởng Viện Pasteur TP.HCM, đã có những chia sẻ về vấn đề này.

Biến chủng nCoV xuất hiện tại Việt Nam thuộc nhóm đáng quan ngại

- Thông qua qua các kết quả giải trình tự gene từ những mẫu bệnh phẩm gần đây, nước ta đã ghi nhận hai biến chủng được thế giới đánh giá là “nguy hiểm”. Có phải SARS-CoV-2 đang trở nên nguy hiểm hơn không thưa ông?

- Các virus nói chung, SARS-CoV-2 nói riêng, trong quá trình lưu hành, sau nhiều lần sao chép và nhân bản, có thể xuất hiện những biến đổi trong cấu trúc của gene. Nghĩa là nó có sự thay đổi ở một hoặc một số vị trí trên bộ gene di truyền so với ban đầu. Điều này được gọi là đột biến gene.

Khi quá trình lây nhiễm tăng nhanh, quá trình virus sao chép và nhân bản cũng gia tăng. Các đột biến gene của virus có cơ hội xuất hiện nhiều hơn. Điều này dẫn đến khả năng xuất hiện biến chủng cao hơn.

Hiện nay, thế giới phát hiện khoảng hơn 28.000 đột biến trên gene của SARS-CoV-2. Hầu hết đột biến không làm thay đổi đặc tính của virus. Tuy nhiên, một số đột biến có thể gây ảnh hưởng đến đặc tính sinh học như làm tăng khả năng lây nhiễm, giúp virus có khả năng lẩn tránh hệ miễn dịch hay làm tăng khả năng xâm nhập vào các tế bào biểu mô đường hô hấp.

Giáo sư, tiến sĩ Phan Trọng Lân, Viện trưởng Viện Pasteur TP.HCM, cho hay các biến chủng đang lưu hành tại Việt Nam được WHO xếp vào nhóm đáng quan ngại. Ảnh: Khôi Nguyễn.

Hiện tại, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chia các biến thể của SARS-CoV-2 làm 2 nhóm là biến chủng đáng quan tâm (VOIs) và biến chủng đáng quan ngại (VOCs). Biến chủng đáng quan tâm (VOIs) khi thay đổi về kiểu hình hoặc một gene chứa nhiều đột biến có khả năng làm thay đổi acid amin liên quan. Hệ quả của điều này là khiến dịch lây lan mạnh trong cộng đồng; có nhiều ca/chùm ca bệnh xuất hiện cùng lúc hoặc được phát hiện ở nhiều quốc gia.

Trong khi đó, biến chủng đáng quan ngại (VOCs) được khẳng định có liên quan sự gia tăng đáng kể của khả năng lây lan; làm thay đổi tình hình dịch tễ Covid-19 một cách tiêu cực; tăng độc lực virus hoặc làm nặng lên biểu hiện lâm sàng; giảm hiệu quả của các biện pháp y tế công cộng, vaccine, xét nghiệm chẩn đoán và liệu pháp điều trị hiện hành.

Hiện nay, các biến chủng đáng quan ngại (VOCs) gồm B.1.1.7 (phát hiện ở Anh, đã được ghi nhận ở 155 quốc gia); B.1.351 (ở Nam Phi, phát hiện tại 111 quốc gia); P.1 (từ Brazil, xuất hiện tại 62 quốc gia) và B.1.617 (ở Ấn Độ, ghi nhận tại 63 quốc gia). Theo WHO, các biến chủng với lợi thế thích nghi sẽ dần dần thay thế các biến chủng cũ theo thời gian.

Tại Việt Nam, ngay từ khi Covid-19 bùng phát, chúng ta đã phát hiện ra các biến chủng mang đột biến D614G vào đầu tháng 3/2020. Biến chủng này xuất hiện trên những hành khách từ nước ngoài về. Sau đó là sự xuất hiện của các VOCs như B.1.1.7, B.1.351 ghi nhận vào tháng 10/2020 trên công dân trở về từ Anh. Đặc biệt, biến chủng B.1.617 ghi nhận ở ổ dịch Yên Bái, Hà Nam.

Như vậy, các biến chủng đáng quan ngại xuất hiện, lưu hành thì sau một thời gian sẽ được phát hiện ở hầu hết quốc gia, trong đó có Việt Nam, khiến công tác dự phòng và kiểm soát đòi hỏi phải nâng ở mức cao hơn nữa.

Lấy mẫu toàn bộ dân xung quanh ổ dịch Hội thánh Phục hưng ở TP.HCM. Ảnh: Chí Hùng.

Biến chủng virus có nguy cơ gây bệnh nặng cao hơn

- Sự xuất hiện những biến chủng của SARS-VoV-2 có tác động như thế nào đến công tác phòng, chống, ngăn chặn sự lây lan của đại dịch Covid-19?

- Hiện nay, các tác động của biến thể SARS-CoV-2 chủ yếu trên 5 phương diện: Khả năng lây lan, độ nặng của bệnh, công tác xét nghiệm, tránh miễn dịch và điều trị.

Với khả năng lây lan, mức độ lây lan của các biến chủng có sự khác nhau. Qua nghiên cứu cho thấy biến chủng B.1.1.7 có khả năng lây nhiễm cao hơn đến 70% so với các chủng cũ. Điều đó có nghĩa một người nhiễm biến chủng cũ trung bình sẽ lây cho 2-4 người khác. Nhưng với B.1.1.7, họ có thể lây cho đến 7 người khác.

Các biến chủng như B.1.351 (Nam Phi), P.1 (Brazil), B.1.617 (Ấn Độ) cũng được WHO cảnh báo có khả năng gia tăng sự lây nhiễm. Do vậy, nếu chúng ta không kịp thời ngăn chặn, khả năng lây lan dịch tăng theo cấp số nhân.

Về độ nặng và điều trị, theo báo cáo từ WHO và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ, biến chủng B.1.1.7 có khả năng liên quan việc tăng độ nặng và khả năng tử vong. Trong khi đó, B.1.351 cũng có thể làm tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện. P.1 khiến nguy cơ nhập viện cao hơn.

Mặt khác, theo ước tính về sự lây truyền virus ở Mỹ, tỷ lệ nhiễm bệnh không triệu chứng là 30%. Điều đó có nghĩa khoảng 70% bệnh nhân sẽ khởi phát triệu chứng sau khi nhiễm nCoV. Ở những người có triệu chứng, khoảng 20% mắc bệnh nặng và 5% là rất nặng (sốc, rối loạn chứng năng đa cơ quan, suy hô hấp…). Do đó, khi số ca mắc tăng lên nhiều, nó sẽ gây quá tải cho hệ thống y tế, từ đó dẫn đến tăng số ca tử vong.

Cách ly tạm thời, lấy mẫu xét nghiệm và phun khử khuẩn Bệnh viện Nhân dân Gia Định (TP.HCM) tối 26/5. Ảnh: Chí Hùng.

Về vấn đề xét nghiệm, theo thống kê của GISAID (Sáng kiến Toàn cầu Chia sẻ Dữ liệu bệnh cúm) cập nhật ngày 21/5, một số phản ứng rRT-PCR không bị ảnh hưởng bởi các biến chủng mới. Các xét nghiệm này thường sử dụng một vài gene đích đặc hiệu để xác định virus, do đó, giảm được sự tác động của các đột biến.

Tuy nhiên, các đột biến của SARS-CoV-2 vẫn xuất hiện thường xuyên, liên tục nên có khả năng ảnh hưởng kết quả xét nghiệm trong tương lai và dẫn tới kết quả âm tính giả. Vì vậy, chúng ta cần thường xuyên cập nhật thông tin về ảnh hưởng của các đột biến, xem xét kết quả xét nghiệm kết hợp triệu chứng lâm sàng, dịch tễ học và tiền sử bệnh nhân.

Về vấn đề vaccine, theo WHO, các vaccine Covid-19 hiện có cung cấp sự bảo vệ nhất định chống lại các biến chủng virus mới. Bởi chúng tạo ra phản ứng miễn dịch rộng, liên quan hàng loạt kháng thể, tế bào.

Do đó, những biến đổi hoặc đột biến của virus sẽ không làm cho vaccine mất hoàn toàn tác dụng. Nếu vaccine nào được chứng minh là kém hiệu quả, nó có thể thay đổi thành phần để chống lại các biến chủng. Vì vậy, việc giám sát các đột biến của virus cũng như tác động của biến chủng tới hiệu quả vaccine cần được theo dõi liên tục.

3 mắt xích cần tập trung để đảm bảo an toàn

- Trước những diễn biến phức tạp và khó lường của dịch bệnh, chúng ta phải làm gì để bảo đảm an toàn cho chính bản thân, gia đình và cộng đồng?

- Để dự phòng và kiểm soát bệnh truyền nhiễm lây qua đường hô hấp, chúng ta cần tập trung vào 3 mắt xích. Một là nguồn lây nhiễm, hai là đường lây truyền, ba là người cảm nhiễm. Nếu mắt xích nào chưa đảm bảo thì phải nỗ lực nhiều hơn nữa những mắc xích còn lại.

Hiện nay, Chính phủ, Bộ Y tế đang nỗ lực để có vaccine cho người dân. Chúng ta cần phải tiêm chủng sớm và đủ liều theo hướng dẫn của Bộ Y tế để đạt được miễn dịch cộng đồng. Khi tỷ lệ bao phủ vaccine cao, nó không chỉ giúp cá nhân được bảo vệ khỏi nguy cơ mắc bệnh nặng, tử vong, mà còn giảm sự lây nhiễm của nCoV, ngăn chúng lây lan, phát sinh các biến chủng mới.

Lấy mẫu xét nghiệm cho công nhân tại Bắc Giang. Ảnh: Việt Linh.

Với nguồn lây nhiễm, hiện nay, nước ta đã kiểm soát chặt chẽ các ca nhập cảnh theo đường chính ngạch. Tuy nhiên, việc kiểm soát nhập cảnh trái phép, nhất là với những trường hợp chỉ quá cảnh qua Việt Nam, nếu không phát hiện được sẽ hoàn toàn mất dấu, khó kiểm soát nguồn lây.

Chưa kể, việc không tuân thủ trong các khu cách ly tập trung, cách ly tại nhà, có thể xuất hiện các trường hợp F0. Điều này rất nguy hiểm, nhất là khi khoảng 60% người mang virus không có biểu hiện bệnh, không biết mình bị nhiễm, khi di chuyển, đi lại sẽ làm bệnh dễ lây lan và khó phát hiện.

Với các ca F0 phát hiện trong cộng đồng, chúng ta đã ngay lập tức điều tra, truy vết, khoanh vùng và cách ly người tiếp xúc (F1). Theo nghiên cứu, để kiểm soát phần lớn ổ dịch, khi chỉ số lây nhiễm cơ bản (Ro) là 2,5, cần phải truy vết ít nhất 70% tổng số người tiếp xúc.

Khi Ro là 3,5, chúng ta phải truy vết ít nhất 90% tổng số người tiếp xúc. Biến chủng mới có thể gây lây nhiễm đến 7 người khác, việc truy vết, phải ở mức cao hơn nữa. Do đó, chúng ta càng phải giám sát toàn diện, phát hiện và “thần tốc, thần tốc và thần tốc” chủ động tấn công, không để sót ca nào.

Thực tế cho thấy, nếu giải quyết được triệt để F0 và F1 trong vòng 24 giờ, sẽ giúp hạn chế tối thiểu cơ hội lây lan thứ cấp tiếp theo.

Dù các biến chủng hiện nay gây lây lan nhanh, cách ly vẫn là biện pháp hiệu quả nhất để giảm, cắt đứt đường lây của SARS-CoV2. Cách giảm sự lây lan của virus là đeo khẩu trang, giảm khoảng cách, cách ly kiểm dịch, cách ly y tế cho đến giãn cách xã hội.

Môi trường kín, đông người, tiếp xúc nhiều, không tuân thủ 5K khiến nguy cơ lây lan virus tăng lên. Ảnh: Duy Hiệu.

Các F1, F2 cách ly tập trung, tại nhà là người khỏe, do đó, việc tuân thủ nghiêm nguyên tắc cách ly, giữ khoảng cách giữa người với người rất quan trọng. Nếu nguyên tắc này không đảm bảo, nó có thể gây tác dụng ngược vì những người nguy cơ cao tiếp xúc dễ lây cho nhau.

Để SARS-CoV-2 lan rộng, chúng cần dựa vào "sự kiện siêu lây nhiễm". Nó không bắt đầu từ một người mang tải lượng virus đặc biệt lớn. Đúng hơn, đó là siêu lây nhiễm do các hoạt động tạo điều kiện thuận lợi cho virus lây lan.

Nếu tổ chức bữa tiệc và mời 30 khách với những hành vi nguy cơ cao trong bữa tiệc như giao lưu, đi lại nhiều, tụ tập đông, ở lại lâu trong môi trường, không gian kín, kém thông khí, nói to... làm gia tăng đáng kể nguy cơ lây nhiễm nCoV. Đó có thể là sự kiện siêu lây lan. Nếu chúng ta ngăn được các sự kiện siêu lây nhiễm như vậy, các vụ dịch khó có cơ hội bùng phát.

Do đó, mỗi người dân cần ý thức được tầm quan trọng của việc hạn chế các hành vi nguy cơ này. Nếu mỗi người dân đều thực hiện nghiêm quy tắc 5K, cho dù là biến chủng nào của SARS-CoV-2 cũng khó có khả năng lây lan.

Hoài Thương - Khôi Nguyễn

To Top