Tiếng kêu cứu từ trong sách đỏ

Hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học còn mang tính quản lý hành chính và còn nhiều lỗ hổng, ít mang tính khoa học và thực tiễn. Bởi thế, không ít loài côn trùng trong Sách đỏ đang 'kêu cứu'.

Những loài bên bờ tuyệt chủng

Bọ lá cơ thể có dạng lá màu xanh. Bọ lá chỉ sống ở vùng nhiệt đới, trên các cành cây trong rừng ẩm, ít thấy trên các cây cỏ ở mặt đất. Bọ lá thường bị bò sát, chim tấn công và một số ong ký sinh, ruồi ký sinh lên trứng của chúng. Ở Việt Nam, chúng sống trong vùng rừng các tỉnh miền núi phía Bắc (Lào Cai, Hòa Bình, Cúc Phương (Ninh Bình)).

Bọ ngựa thông thường thuộc côn trùng săn mồi, ăn thịt, thậm chí còn ăn thịt lẫn nhau. Đặc biệt, con cái có thể ăn thịt con đực ngay trong thời gian giao phối hoặc sau đó. Một lần đẻ khoảng 100 - 300 trứng, sắp đều đặn trong nang trứng (cochon).

Bọ ngựa sinh sống khắp trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là loài duy nhất thuộc bộ bọ ngựa (Mantodea) được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Loài bọ ngựa có nhiều ích lợi, vì tiêu diệt nhiều côn trùng có hại, là vị thuốc Đông y và vẻ đẹp trong thiên nhiên. Nhưng số lượng bọ ngựa còn rất ít và hiếm gặp, vì phun thuốc trừ sâu, biến đổi môi trường, kẻ thù tự nhiên (chim, bò sát…)…

Bướm đuôi dài xanh lá chuối xuất hiện ở miền Bắc Ấn Độ, Malaysia, Java, Sulawesi và ở Trung Bộ và Nam Bộ của Việt Nam. Đây là một trong những loài bướm đẹp nhất, có độ sải cánh gần 20cm, đuôi dài có màu xanh lá chuối non, con đực có râu dạng kép ngắn. Con đực nhỏ và thon, sải cánh đẹp hơn con cái, chân có nhiều lông.

Riêng con đực, bàn chân sau và bàn chân giữa có hai cựa. Do là loài bướm có màu sắc đẹp, nên chúng bị nhiều người sưu tầm côn trùng tìm kiếm và môi trường rừng ngày càng bị thu hẹp, chúng trở thành loài quý hiếm được đưa vào Sách đỏ của Việt Nam ở mức rất nguy cấp (CR).

Bướm khế hay còn gọi bướm đêm Atlas, cũng có nơi gọi bướm bà. Vùng phân bố loài này ở rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới của Đông Nam Á, phổ biến ở quần đảo Malaysia. Bướm đêm Atlas được xem là loài bướm đêm lớn nhất trên thế giới với tổng diện tích bề mặt cánh lên tới khoảng 400 cm2. Sải cánh của chúng cũng thuộc loại lớn nhất, từ 25 - 30 cm (10 - 12 in). Bướm khế là một trong ba loài bướm có tên trong Sách đỏ Việt Nam và cũng ở mức rất nguy cấp (CR).

Bướm phượng cánh đuôi nheo còn gọi là bướm rồng đuôi trắng là một loài bướm nhỏ thường sống ở một số nơi thuộc Nam Á (Ấn Độ, từ Assam đến Miến Điện) và Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Việt Nam, Nam Trung Quốc, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Brunei và Philippines). Loài này thuộc giống Lamproptera của họ bướm phượng (Papilionidae) thuộc loài sắp bị đe dọa (NT).

Bướm phượng cánh kiếm có tên khoa học là Graphium antiphates, tên khác là Pathysa antiphates, là loài bướm có kích thước trung bình, chiều rộng sải cánh 80 - 95mm. Cánh con đực và con cái có kích thước giống nhau, màu trắng vàng, có nhiều vạch đen. Loài này thường thấy ở bìa rừng, ven suối và nơi ẩm ướt. Giá trị làm cảnh và nghiên cứu khoa học, bảo tồn nguồn gene.

Bướm phượng cánh sau vàng. Bướm có kích thước lớn, sải cánh dài 140 –190 mm, cánh trước mặt trên màu đen tuyền, mép ngoài có đường viền màu trắng. Cánh sau mặt trên hầu như được phủ màu vàng óng ánh, chỉ còn mép ngoài của cánh là màu đen.

Nước ta gặp ở vùng rừng rậm. Bướm thường sống ở những nơi rừng rậm, ẩm... Buổi sáng trời nắng và buổi chiều tối thường từ rừng rậm bay ra. Bướm bay rất khỏe và nhanh, nhưng thường bay thấp. Bướm dễ bị vợt do bay thấp và đậu trên các hoa bụi.

Cánh kiến đỏ là sản phẩm được tiết ra từ loài rệp sáp Kerria lacca thuộc họ Lacciferidae, bộ Homoptera, sống ký sinh trên một số loài cây. Từ xưa, nhựa cánh kiến đỏ đã được xếp vào mặt hàng “lâm, thổ sản” quý hiếm.

Những năm 70, 80 của thế kỷ XX, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) đã trồng hàng trăm ha rừng cây cọ phèn với mục đích tạo rừng phòng hộ đầu nguồn và tận dụng để sản xuất cánh kiến đỏ, sản lượng cánh kiến đỏ đã lên tới hàng trăm tấn mỗi năm, xuất khẩu sang các thị trường thế giới.

Sau này do mất thị trường Đông Âu, cùng với những thay đổi trong cơ chế quản lý và sự thiếu quan tâm của nhiều cấp, cùng nhiều nguyên nhân khác, nghề sản xuất cánh kiến đỏ tại Mường Lát bị suy thoái. Hàng loạt ha rừng cọ phèn bị chặt hạ làm củi, lấy gỗ, thậm chí đốt bỏ để lấy đất canh tác nương rẫy.

Cà cuống là một giống trong họ Belostomatidae, phân bố rộng khắp thế giới. Sự đa dạng về số loài tập trung ở châu Mỹ, châu Âu có 1 loài, châu Phi và châu Úc, mỗi châu có 2 loài, ở châu Á có 3 loài. Các loài của giống có cơ thể lớn nhất trong bộ Cánh nửa, đạt chiều dài đến 12 cm. Ở Việt Nam chỉ có 1 loài là Cà cuống (L. indicus).

Con cái đẻ trứng lên thực vật (có lúc trên vật thể nhân tạo), ở nơi đủ cao để trứng không luôn ngập nước. Con đực trông chừng kẻ săn mồi và giữ trứng ẩm ướt. Cà cuống là động vật săn mồi, bằng vòi chích để tiêm nước dãi có độc và hút dịch từ con mồi; không bao giờ ăn động vật chết.

Những loài côn trùng quý hiếm

Việt Nam có nhiều loài côn trùng quý hiếm song có một số loài đặc biệt quý hiếm. Bướm phượng đuôi kiếm răng cưa là một loài quý hiếm, phân bố hẹp, chỉ có ở các khu rừng tự nhiên trên núi cao từ Nepal đến Bắc Ấn Độ, ở Nam Trung Quốc, Trung Lào và vùng Đông Bắc Việt Nam.

Thường thấy loài bướm này ở độ cao trên 1.500m. Con đực ưa thích bay trên đỉnh núi, trong khi đó con cái chỉ bay giới hạn ở nơi có nhiều loài cây họ ngọc lan.

Bọ cua bay hoa. Cơ thể con đực dài tới hơn 60mm; tấm lưng ngực trước có màu xanh cổ vịt óng ánh, diềm bên có lông màu vàng. Con cái có màu sắc giống con đực, nhưng chân trước không phát triển, đốt ống chân trước ngắn và bờ ngoài của nó có gai dạng răng cưa.

Cá thể trưởng thành xuất hiện vào tháng 6 đến tháng 8 ở vùng rừng núi có khí hậu ôn hòa. Phân bố trong nước đã thấy có ở Lào Cai (Sa Pa), Cao Bằng (Bảo Lạc) và Vĩnh Phúc (Tam Đảo). Trên thế giới mới chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam, Lào và phía Nam của Trung Quốc.

Bọ hung năm sừng. Phạm vi phân bố của bọ hung năm sừng là vùng Đông Nam Á. Tại Việt Nam theo Sách đỏ 2007, chỉ có khoảng 2.000 cá thể còn sinh tồn, sống chủ yếu ở khu vực Vườn quốc gia Tam Đảo. Cơ thể màu đen huyền, sáng bóng, trong khi cánh cứng và cánh màng có màu vàng. Cơ thể được bao phủ bởi một bộ xương ngoài dày và một đôi cánh cứng dày với cánh màng bên dưới, cho phép con bọ bay được, cho dù không phải bay giỏi, do kích thước lớn, cơ thể nặng nề của nó.

Khai thác và bảo tồn

Từ khoảng 30 năm gần đây, khi vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường được quan tâm đã làm thay đổi nhận thức và đã đạt được nhiều kết quả trong nghiên cứu khoa học cũng như thực tiễn. Nhìn vào thực tế hiện nay ở nước ta thì thấy hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học còn mang tính quản lý hành chính nhiều hơn và còn nhiều lỗ hổng, ít mang tính khoa học và thực tiễn.

Hiện có rất ít thông tin về tình hình bảo tồn và khai thác nhóm động vật nhỏ bé này. Ngay cả những trung tâm cứu hộ động vật hoang dã và các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên cũng chỉ quan tâm đến nhóm thú và chim.

Các báo cáo điều tra côn trùng cũng chỉ dừng lại ở việc thông báo đã phát hiện được những loài có tên trong Công ước CITES hay trong Sách đỏ của Việt Nam. Sau đó đưa ra khuyến cáo như tuyên truyền, giáo dục; cấm săn bắt, khai thác, mua bán… Việc bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng nói chung và bảo tồn những loài côn trùng có trong Sách đỏ và quý hiếm ở nước ta chưa được quan tâm.

Để bảo tồn, với một số loài côn trùng nêu trên, có thể chia thành 3 nhóm cần phải giải quyết khi muốn bảo tồn và khai thác. Nhóm thứ nhất như bọ lá, bọ ngựa… cần phải có nghiên cứu điều tra cơ bản và xây dựng khóa định loại cho các loài bọ lá, bọ que và bọ ngựa… có ở Việt Nam. Điều mà đến nay chưa ai thực hiện. Nhóm thứ hai, như các loài bướm và cánh cứng, rõ ràng để bảo tồn cần phải biết chúng ăn gì, sống thế nào hay những đặc điểm sinh học, sinh thái học cơ bản của chúng.

Trên cơ sở đó xem xét lại vùng chúng đang sinh sống có bị tàn phá không… Nếu môi trường sống của chúng bị suy giảm, cần có biện pháp gì để phục hồi. Chẳng hạn, trồng lại một loài cây là ký chủ của sâu bướm để chúng tồn tại. Nhóm thứ ba, như cánh kiến đỏ, cà cuống… đang được nhân nuôi và khai thác, sẽ xác định có cần phải bảo tồn hay khai thác bền vững ra sao?

Việc khai thác côn trùng ở nước ta đang ở giai đoạn “tự phát”, mang tính hủy diệt. Thậm chí, việc phá rừng, việc chuyển đổi rừng tự nhiên để phát triển các ngành kinh tế khác cũng trực tiếp hạn chế sự phát triển của côn trùng, đặc biệt những côn trùng quý hiếm, có phổ sinh thái hẹp.

Có lẽ con đường hiệu quả nhất để bảo tồn và khai thác hợp lý tài nguyên côn trùng, đặc biệt đối với những loài quý hiếm (ở Việt Nam có đến hàng trăm loài) hoặc trong Sách đỏ nên nhân nuôi bán nhân tạo hoặc nhân tạo tại chỗ (nơi chúng đang tồn tại) ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên hay thành lập một số trung tâm nhân nuôi côn trùng vừa phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và du lịch.

To Top