Tây Nguyên - lắng tiếng đại ngàn

SPL - Trong đời sống hiện đại ngày nay, văn hóa truyền thống của đại ngàn Tây Nguyên vẫn róc rách chảy với sự trong trẻo và chân thành như muôn nghìn năm cũ. Văn hóa ấy càng có hồi sinh khi những hạt giống của các buôn làng được gieo trên mảnh đất hiện đại, đang đâm chồi và dần phát triển.

Làm cối gỗ đã thành nghề

Tiếng máy cưa xăng, tiếng máy bào, lúc rền rĩ, lúc chỉ lao xao… đó là âm thanh rất đặc trưng ở làng Breng, xã Ia Pết, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai. Mùi gỗ, mùi vỏ cây, nhựa cây thoang thoảng báo cho khách biết ở đây có cơ sở sản xuất đồ gỗ.

Và quả thật, Breng là làng dân tộc thiểu số hiếm hoi ở Gia Lai làm đồ gỗ như một nghề để kiếm sống. Đặc biệt hơn nữa, nghề này chỉ có thanh niên tham gia và loại sản phẩm duy nhất được xuất xưởng là những chiếc cối gỗ truyền thống.

Trong một góc vườn xếp sẵn nhiều lóng gỗ nguyên liệu, A Thắng cùng 2 người bạn của mình hợp thành một dây chuyền sản xuất. Một người dùng bào tay chạy điện, bào các khúc gỗ thành phôi cối suôn tròn. Một người khác dùng cưa xăng xắn sâu vào gỗ phôi để tạo lòng cối ban đầu. A Thắng là người đảm đương khâu sau cùng. Với chiếc nạo gỗ dài như cây xà gạc, có lưỡi thép cong lòng máng sắc lẹm, một tay anh điều kiển vị trí lưỡi nạo, tay kia đẩy cán nạo, nạo dọn lòng cối cho đủ rộng và trơn tru.

Cối giã trong đời sống của buôn làng Tây Nguyên.

Theo A Thắng, nghề làm cối cũng tương đối nguy hiểm, nhất là khi mới tập làm. Dùng cưa không kéo, phôi cối tròn sẽ lăn đi, lưỡi cưa trượt ra ngoài dễ gây thương tích. Dùng nạo để hoàn thiện cối lại càng dễ bị thương bởi lưỡi nạo sắc bén hoặc do dằm gỗ đâm vào tay. “Nhưng so với ngày xưa ông bà mình làm thì đã dễ và nhanh hơn nhiều. Ông bà xưa phải luân phiên dùng than lửa đốt cho phần lõi khúc gỗ cháy xuống, sau đó dùng dao để gọt bỏ than. Như vậy nhanh lắm thì cũng 1 ngày mới xong 1 cái cối. Bởi vậy, hồi xưa chẳng có ai làm nghề sản xuất cối gỗ cả. Nhưng nay thì có máy phụ trợ, chỉ cần 40 phút là có thể xong một chiếc cối cao tới đầu gối, rộng hơn 1 gang tay, bán được ít nhất là 250 nghìn đồng” - A Thắng nói.

Cũng theo nghề làm cối gỗ ở làng Breng, anh A Nhun cho biết, tuy cách làm truyền thống - đốt cháy lõi gỗ và dùng dao gọt dần không còn được kế thừa, nhưng kinh nghiệm chọn gỗ của ông bà xưa thì còn nguyên giá trị. Cây được chọn nhiều nhất để làm cối là cây tơ nang và cây cà chít. Những cây này lúc còn tươi thì dai, mềm, dễ chế tác thành cối. Khi khô, gỗ cứng lại như đá, giúp cối được bền bỉ trong quá trình sử dụng. Cây tơ nang và cà chít giờ còn rất ít thì bà con tìm được loại có tính chất tương tự là gỗ của cây xà cừ, giống cây lâm nghiệp khá phổ biến, được trồng thành rừng, hoặc trồng thành cây bóng mát dọc các đường phố, đường quê, đủ nguyên liệu để người làng Breng sản xuất lâu dài. Và những cối, những chày từ làng Breng, theo những chuyến xe tới các làng ở khắp Gia Lai, Kon Tum, được bán với giá từ 300.000đ đến 700.000 đồng mỗi bộ.

Làm cối gỗ ở Breng đã thành nghề.

Hiện đại hơn một mức, một số buôn Ê-đê, Mnông ở tỉnh Đắk Lắk đã biết đầu tư máy tiện. Nhờ công cụ này, chỉ cần 1 người đứng máy là đủ thi công liên tục từ lúc tạo phôi đến hoàn chỉnh. Và cũng nhờ máy tiện, chiếc cối gỗ của các buôn ở Đắk Lắk dễ dàng được dáng eo như dáng gùi của cối gỗ cổ truyền, lại có thêm nắp, thêm núm rất hiện đại, để đậy-mở miệng cối mỗi khi sử dụng hay cất giữ. Cối-chày Ê-đê, Mnông ở Đắk Lắk cũng tìm đến các buôn làng bằng con đường hiện đại hơn, đó là đăng-bán trên mạng xã hội và được ship bởi dịch vụ bưu vận chuyên nghiệp, tới tận tay khách hàng gần xa.

Nhịp chày kết nối cộng đồng

Đã vài năm nay, ông Y Dĩnh Niê, ở Buôn Kốp, xã Drây Sáp, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk mở dịch vụ homstay. Và có lẽ bởi vậy, căn nhà cạnh cụm thác Drây Sáp- Đrây Nu nổi tiếng gần như trở thành nơi để “về nguồn” văn hóa Ê-đê. Ở đây có cả cối cũ, cối mới. Có cái đang sử dụng, có cái đã thành cổ vật, chỉ để trưng bày. Theo ông Y Dĩnh, không bao giờ một gia đình Êđê biến chiếc cối cũ, thành củi đun, dù nó bị rạn nứt hay mòn-thủng. Bà con giữ cối cũ cũng không phải như giữ một thứ cổ vật có giá trị, mà bởi sự tri ân đã ăn sâu vào tâm thức: “Trước đây, một cái cối có khi gắn bó với gia đình đến cả chục năm, giúp cho gia đình chế biến món ăn hàng ngày, nên bà con không bao giờ coi cối như một khúc gỗ hay củi”.

Cối gỗ mới của người Ê đê đăng bán trên mạng xã hội facebook.

Cũng theo ông Y Dĩnh, bây giờ, trừ gạo ăn hàng ngày là được xay xát bằng máy, còn hầu như mọi thứ để ẩm thực, người Ê-đê vẫn dùng cối: Cối để giã bột, giã tiêu, ớt gia vị. Nhiều loại rau rừng, lá rẫy, dù để nấu canh hay để xào hay nấu, cũng đều được giã cho hương vị quện thấm vào nhau. Bởi thế, cũng như ở nhiều gia định Ê-đê khác, món ăn ở nhà Y Dĩnh không có hình thức bóng bẩy, nhưng luôn đậm đà khó quên.

Đêm cuối năm lạnh cóng, ông Y Dĩnh mời khách nhưng ly cà phê đen. Khách không khỏi trầm trồ bởi hương vị đặc biệt. “Cà phê vườn, hái chín đấy. Tôi rang cả vỏ, đến khi vỏ xốp giòn thì xát bỏ đi, rồi dùng cối để giã. Nếu cà phê được giã bằng cối thì khi pha trong phin sẽ không bị tắc và cũng có hương vị khác nhiều so cà phê xay”- ông Y Dĩnh nói.

Chị H’Thi là biên dịch viên một chương trình phát thanh tiếng M’Nông ở tỉnh Đăk Lăk, gần như đã “mở tiệm chày-cối” trên trang Facebook của mình. Mới bán từ tháng 11 năm ngoái, mà đến nay, H’Thi đã không nhớ nổi số lượng đã bán ra. Theo chị, cối gỗ vẫn phổ biến ở các buôn làng là bởi người Ê-đê, M’Nông nói riêng, các dân tộc Tây Nguyên nói chung, vẫn có tính cộng đồng rất chặt chẽ. H’Thi liên tưởng: “Người Kinh cũng có cối gỗ, cũng để giã một số món ăn và gia vị, nhưng cối rất nhỏ. Cối gỗ của người Tây Nguyên, ngoài hình dáng khác, thì kích thước lớn hơn gấp nhiều lần. Không chỉ vì bà con có nhiều thứ để giã hơn, mà còn là để giã được nhiều hơn, phục vụ cho nhiều người ăn hơn. Như anh thấy đấy, làm gì có gia đình nào ở các buôn mà ít người đâu. Bữa nào ít cũng bảy tám người ăn, và luôn có món cần phải giã. Nếu gia đình nào có đám, sẽ cần đến dăm bảy chiếc cối như thế, tiếng giã bột, giã lá, giã gia vị thậm thịch khắp sân khắp vườn”…

Nụ mầm truyền thống gieo trong vườn 4.0

Trong khi H’Thi- người phụ nữ M’Nông thích thú với việc đăng bán những chiếc cối gỗ trên mạng Facebook và kể cho khách hàng nghe về những câu chuyện, những món ăn truyền thống ra đời từ miệng cối, thì H’Nêch Bkrong, một cô nàng Êđê ở xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, lại dùng mạng xã hội để bán mọi nông sản-đặc sản của gia đình và buôn làng: từ trái bắp nếp dân dã, nụ nấm mối đầu mùa mưa, bông núc nác lạ lẫm, trái cà đắng quen thuộc tới hoa Djam Tang đặc sản… và thứ nào cũng bán chạy không ngờ.

Chẳng những khách hàng ở các buôn dân tộc thiểu số chốt mua sản phẩm quen thuộc, mà nhiều người Kinh cũng muốn nếm thử những thứ trước đây họ mới chỉ được nghe tên. Như hoa Djam Tang, trước đây chỉ mọc tự nhiên ven suối, chỉ những cụ già nhiều kinh nghiệm là rành rẽ chỗ nào mọc nhiều, nơi nào mọc ít, nên hầu như không có trên thị trường. Rừng Tây Nguyên bị thu hẹp, sông suối bị đắp đập, chặn dòng, hoa Djam Tang có nguy cơ tuyệt chủng khi nhiều người vẫn chưa kịp thưởng thức. Thế nhưng, đặc sản này, nay thậm chí đã có đủ cho H’Nếch bỏ sỉ. Có tuần, chị bán được hơn 1 tạ, thu về hơn 7 triệu đồng.

“Có lẽ là mạng xã hội đã cứu được cây Djam Tang-cùng nhiều đặc sản khác của người Ê-đê, tại vì giao lưu trên đó, mọi người mới biết, mới hỏi mua. Từ đó mới có người giữ giống, đem về trồng, rồi mới thành sản phẩm như bây giờ” - H’Nếch cảm thán.

Nhiều món đặc sản Tây Nguyên đều trải qua miệng cối.

Đời sống hiện đại đặt ra nhiều thách thức với sự tồn tại, tiếp diễn của văn hóa truyền thống Tây Nguyên, nhưng cũng đang tạo nên những con người mới và những cơ hội mới. Chị H’Hương A Yun, một thợ dệt thổ cẩm ở buôn Brah, xã Ea Tul, huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk cho biết: Mấy năm trước, nghề dệt thổ cẩm ở địa phương gần như bế tắc, nhưng nay thì dệt không kịp bán. Động lực cho thay đổi này chính là H’Hen Niê, người con của Cư M’Gar đăng quang hoa hậu hoàn vũ Việt Nam trong tà áo chất liệu thổ cẩm truyền thống, với câu chuyện về hành trình vươn tới đầy tự tin.

“H’Hen tự tin cũng khiến người ở các buôn của Cư M’Gar tự tin. H’Hen tự hào với buôn làng mình và chiếc váy thổ cẩm, cũng lan tỏa sự tự hào ấy cho thanh niên ở các buôn trong huyện. Giờ thì trai gái nào nào cũng sắm cho mình ít nhất là 1 bộ thổ cẩm truyền thống. Thổ cẩm truyền thống cũng có thể bán chạy hơn khi đăng trên mạng xã hội, nên nghề dệt mới được như vậy”- H’Hương phân tích.

Vẫn là những nhịp chày trên nhà sàn truyền thống, giã những món ăn truyền thống. Vẫn váy áo thổ cẩm đỏ - đen - xanh bình dị. Vẫn cà đắng, ớt, tiêu, lá é như trong bữa ăn của hàng trăm năm trước, nhưng mức lan tỏa những sản phẩm, văn hóa của các buôn làng Tây Nguyên đang trở nên xa rộng hơn rất nhiều, được đời sống hiện đại đón nhận, dung chứa.

Những lớp người mới ở các buôn làng Tây Nguyên đang làm được những việc vô cùng đáng quý. Văn hóa đại ngàn của Tây Nguyên, nhờ những con người ấy, đang được gieo trồng vào không gian mới, đang hồi sinh trở lại, để những ai yêu Tây Nguyên sẽ thấy lại những trong trẻo, chân thành và hào phóng./.

Dương Đình Tuấn - Thanh Tú

To Top